Nhà nước thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam - nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân là một trong những thành quả quan trọng, có ý nghĩa nền tảng của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng ấy được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức và coi trọng, ngay từ năm 1919, trong áng thơ dịch “Việt Nam yêu cầu ca” của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đưa ra yêu cầu “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Sáng 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới với tư tưởng cốt lõi là tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân, bắt nguồn từ Nhân dân, được Nhân dân ủy quyền. Vì vậy, hoạt động của Nhà nước phải phụng sự lợi ích của Nhân dân, Nhân dân có quyền phúc quyết Hiến pháp; Nhà nước với tư cách là một chỉnh thể quyền lực để thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân. Có thể thấy, mặc dù chưa sử dụng khái niệm “nhà nước pháp quyền” nhưng Hiến pháp năm 1946 đã bao hàm tư tưởng về Nhà nước pháp quyền một cách rõ nét.
Trong thời kỳ đổi mới, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) đã chủ trương xây dựng Nhà nước với những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền là: “Nhà nước Việt Nam thống nhất 3 quyền, bao gồm: lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch 3 quyền đó”. Đặc biệt, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) chính thức đưa vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN vào văn kiện của Đảng với yêu cầu: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam”.
Đại hội IX (năm 2001) và X (năm 2006) của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Đại hội XI (năm 2011) của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định Nhà nước ta là: “Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Chủ trương đó được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và nhiều luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam từng bước được bổ sung, hoàn thiện.
Trải qua các kỳ đại hội cùng với kinh nghiệm được đúc kết trong quá trình lãnh đạo, nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam từng bước được bổ sung, hoàn thiện. Từ lý luận và thực tiễn cho thấy, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vừa mang giá trị tiến bộ của nhân loại, vừa có các đặc trưng của Việt Nam. Đó là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hành dân chủ gắn với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội và do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Trên phương diện lập hiến, Hiến pháp năm 2013 đã quy định những vấn đề căn cốt của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam về bản chất, nguyên tắc, tổ chức, hoạt động, chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước; phân quyền giữa các cơ quan quyền lực nhà nước, vị trí của pháp luật đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam; vấn đề quyền con người, quyền công dân; vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCN. Khi đề cập đến Nhà nước pháp quyền XHCN, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Nhà nước pháp quyền XHCN về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ XHCN là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số Nhân dân”.
Qua từng giai đoạn lịch sử, Đảng không ngừng hoàn thiện quan điểm về Nhà nước pháp quyền XHCN. Nghị quyết 48 và 49-NQ/TW đặt nền móng cho chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp; Nghị quyết 27-NQ/TW khái quát thành các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN: dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức hoạt động dựa trên Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng quyền con người, quyền công dân, quyền lực nhà nước thống nhất với sự kiểm soát giữa các cơ quan và tạo điều kiện để Nhân dân tham gia quản lý.
Có thể nói, 80 năm nhìn lại, từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đến nay, Đảng đã thể hiện một dòng chảy tư tưởng xuyên suốt: kiên định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, đồng thời đổi mới phương thức và giải pháp để phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Chính sự nhất quán và sáng tạo ấy là bảo chứng để dân tộc ta vững bước trên con đường độc lập, tự cường, hạnh phúc và phát triển bền vững, hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường vào năm 2045.